Bích Ngọc - 14:36 08/10/2020
Ngoài những người Lạch, người Cil (Kơho Lạch, Kơho Cil) thì cư dân người Kinh ở Đà Lạt lúc bấy giờ phần lớn là những người lao động nghèo ở miền Bắc, miền Trung. Họ di dân tự do hoặc đi phu phen, tạp dịch rồi tự nguyện ở lại lập nghiệp. Về sau những năm 1937-1938, người Pháp và chính quyền sở tại đã cho di dân ở một số địa phương từ miền Bắc, miền Trung như Hà Đông, Nghệ - Tĩnh vào Đà Lạt định cư. Mục đích chính là nhằm sản xuất rau, hoa cung cấp cho thành phố. Đến giai đoạn sau còn có nhiều cư dân ở các vùng Thừa Thiên - Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi cũng vào đây lập nghiệp.
Những cư dân người Kinh khi mới tới đây họ thường tập trung theo nhóm quê hương để lập ấp sinh sống. Giai đoạn này Đà Lạt đã lần lượt ra đời các ấp. Ấp Hà Đông được thành lập đầu tiên vào năm 1938. Do sáng kiến của các quan chức triều Nguyễn thời bấy giờ là ông Hoàng Trọng Phu - Tổng đốc Hà Đông, Phó Chủ tịch Hội đồng tư vấn Bắc Kỳ; ông Trần Văn Lý - Quản đạo thành phố Đà Lạt, Tổng đốc Lâm Đồng - Bình Ninh (Lâm Đồng, Đồng Nai Thượng, Bình Thuận, Ninh Thuận) và ông Lê Văn Định - Thượng canh nông tỉnh Hà Đông, sau làm Chánh án Tòa án hỗn hợp Đà Lạt.
Những cư dân đầu tiên của ấp Hà Đông là những người nông dân thạo nghề làm vườn ở các làng Quảng Bá, Nghi Tàm, Tây Tựu, Ngọc Hà, Xuân Tảo, Vạn Phúc… thuộc tỉnh Hà Đông đến Đà Lạt, trồng rau và lập ấp vào năm 1938. Về sau còn có một số người Quảng Ngãi đến làm thuê và ở lại ấp lập nghiệp.
Ấp Nghệ Tĩnh do những người quê ở Nghệ An, Hà Tĩnh vào lập nghiệp và lập ấp vào năm 1940. Đa số dân trong ấp là những người lao động nghèo và có một số là những người yêu nước bị địch khủng bố ở quê nhà nên đã cùng gia đình vào đây sinh sống. Một số khác được người có chức sắc trong chính quyền (ông Nguyễn Khắc Hòe) tuyển mộ ở quê đưa vào. Thời gian đầu họ đi làm thuê trong các công sở, chiều về vỡ đất khai hoang trồng thêm rau, sau đó dần dần chuyển sang nghề làm vườn. Sản phẩm chủ yếu là atiso và một số loại rau ôn đới.
Đây được xem là ấp nghèo nhất Đà Lạt bấy giờ. Là vùng đất hoang vu, khai phá được 70 ha, chia lô cho 70 hộ dân với hơn 400 nhân khẩu. Trong đó khoảng 40 ha sản xuất nông nghiệp. Đà Lạt lúc ấy rất rét, luôn có tuyết rơi. Tuyết phủ rọ ươm (cây giống) bông đóng kín, bà con nấu nước ấm đổ lên cho tan tuyết… Thế rồi chết luôn cây. Nhờ sự cần cù, ham học hỏi, đúc kết kinh nghiệm cuộc sống, người dân Nghệ Tĩnh mới “dần dần đủ ấm”.
Nơi đây, thuở ban sơ chỉ là vùng đất trũng giữa thung lũng với những hàng cây rậm rạp, xung quanh là đồi cao che khuất. Sau khi những cư dân Huế đầu tiên đặt chân lên mảnh đất Đà Lạt, họ đã cải tạo, khai hoang và biến nơi này thành một vùng sản xuất nông nghiệp.
Ban đầu chỉ có khoảng năm đến sáu hộ gia đình người làng Kế Môn, Phước Yên sống trong những chòi lá đơn sơ cất tạm bên cạnh những mảnh vườn mấp mô vừa được khai hoang để trồng rau. Về sau với sự cần mẫn, chịu thương chịu khó của mình người dân đã san lấp, bồi đắp các hố sâu để mở rộng trở thành vườn rau mới. Vào năm 1952, cụm dân cư được đặt tên và Ấp Ánh Sáng “ra đời” với ước mong khu dân cư sẽ thịnh vượng như chính cái tên của mình.